Lịch sử Moldova

Bài chi tiết: Lịch sử Moldova

Thời Cổ đại lãnh thổ Moldova là nơi sinh sống của các bộ tộc Dacian. Giữa thế kỷ thứ I và thế kỷ thứ VII trước Công nguyên, vùng phía nam thỉnh thoảng nằm dưới quyền kiểm soát của các Đế chế La Mã và sau đó là Byzantine. Vì vị trí chiến lược của nó là cầu nối giữa châu Áchâu Âu, lãnh thổ Moldova hiện đại nhiều lần trong thời kỳ cuối cổ đại và đầu thời Trung Cổ đã bị người Goths, Huns, Avars, Magyars, Pechenegs, Cumans, và Mông Cổ xâm lược. Những cuộc tấn công của người Tatar tiếp tục sau sự thành lập Công quốc Moldavia năm 1359, với các biên giới là dãy núi Carpathian ở phía tây, sông Dniester ở phía đông và sông Danubebiển Đen ở phía nam. Lãnh thổ của nó gồm lãnh thổ hiện tại của Cộng hoà Moldova, tám trong số 41 tỉnh ở phía đông Romania, và vùng tỉnh ChernivtsiBudjak của Ukraina. Như nước cộng hoà hiện tại, nó được người địa phương gọi là Moldova. Năm 1538, công quốc trở thành một chư hầu của Đế chế Ottoman, nhưng vẫn giữ được một phần tự trị bên trong và bên ngoài.

Năm 1812, theo Hiệp ước Bucharest giữa Đế chế Ottoman (trong đó Moldavia là một chư hầu) và Đế chế Nga, Đế chế Ottoman nhượng nửa phía đông Công quốc Moldavia, dọc Khotyn và Bessarabia cũ (Budjak hiện đại), dù có nhiều cuộc phản đối của người Moldavia.

Ban đầu, người Nga dùng cái tên "'Oblast' (tỉnh) Moldavia và Bessarabia", cho phép họ có quyền tự trị rộng lớn, nhưng sau này (năm 1828) ngưng chính quyền tự quản và gọi nó là Guberniya của Bessarabia, hay đơn giản Bessarabia, bắt đầu quá trình Nga hoá, một phần của chính sách này tại Bessarabia là bài trừ yếu tố Romania bằng cách cấm giáo dụclễ hội tôn giáo bằng tiếng România từ sau thập niên 1860; hậu quả là một tỷ lệ biết chữ cực thấp (năm 1897 xấp xỉ 18% nam giới, xấp xỉ 4% nữ giới biết chữ).[10] Phần phía tây Moldavia (không phải là một phần của Moldova hiện nay) vẫn là một công quốc tự trị, và vào năm 1859, thống nhất với Wallachia để hình thành Vương quốc Romania. Năm 1856, Hiệp ước Paris chứng kiến ba tỉnh của Bessarabia - Cahul, BolgradIsmail - quay trở lại với Moldavia, nhưng vào năm 1878, Hiệp ước Berlin chứng kiến Vương quốc Romania trả lại chúng cho Đế chế Nga. Trong thế kỷ XIX, chính quyền Nga[11] khuyến khích việc di cư tới các phần của vùng bởi người Ukraina, Lipovan, Cossack, Bulgari,[12] Đức,[13] Gagauz, và cho phép định cư thêm nhiều người Do Thái; tỷ lệ dân cư là người gốc Moldova giảm từ khoảng 86% năm 1816[14] xuống khoảng 52% năm 1905.[15]

Một bích hoạ nhà thờ thể hiện Ștefan Vĩ đại, người trị vì công quốc Moldavia từ 1457 tới 1504, và là nhân vật lịch sử nổi tiếng nhất của MoldaviaCông quốc Moldavia năm 1483Các lãnh thổ Công quốc Moldavia thời Trung Cổ hiện bị phân chia giữa România (tây Moldavia với nam Bukovina) xanh dương, Moldova (lõi của Bessarabia) xanh lá cây, và Ukraina (nam Bessarabiatỉnh Chernivtsi) đỏ.

Thế chiến I đã khiến người dân địa phương nhận thức cao hơn về chính trị và văn hoá (quốc gia), có 300,000 người Bessarabian đăng ký gia nhập Hồng Quân Xô Viết được thành lập năm 1917; bên trong các đơn vị lớn hơn nhiều "Hội đồng Binh sĩ Moldavia" được thành lập. Từ tháng 11 năm 1917 đến tháng 1 năm 1918, công nhân và nông dân thành lập chính quyền Xô viết ở Kishinev, Bendery, Tiraspol và các thành phố và phụ cận khác quanh Moldavia. Tuy nhiên chính quyền Xô viết chỉ đứng vững ở phía đông Moldavia (tả ngạn của Dniester). Vùng phía tây của đất nước là Bessarabia vốn nằm giữa Prut và Dniester không nằm trong quyền lực của Xô viết. Tại đây, một nghị viện Bessarabia, Sfatul Ţării, được bầu vào tháng 10 tháng 11 năm 1917 và khai mạc ngày 3 tháng 12 năm 1917 hoặc 21 tháng 11 năm 1917 theo lịch cũ, tuyên bố nhà nước Cộng hoà Dân chủ Moldavia (15 tháng 12, hay 2 tháng 12 năm 1917) bên trong nhà nước liên bang Nga, và thành lập chính phủ của họ (21 tháng 12 hay 8 tháng 12 năm 1917). Bessarabia tuyên bố độc lập khỏi Nga (6 tháng 2 hay 24 tháng 1 năm 1918), vào ngày 9 tháng 4 hay 27 tháng 3 năm 1918. Ngay sau đó, Quân đội Romania tiến vào trong vùng nhằm đối phó với một nỗ lực phản kháng của người dân địa phương với sự lãnh đạo của Bolshevik. Khi đó chính quyền Nga Xô viết đang bận đối phó với các lực lượng Bạch vệ trong Nội chiến Nga nên không thể đem quân bảo vệ Bessarabia. Khi biết sẽ không nhận được sự hỗ trợ, đầu tháng 1, Sfatul Ţării quyết định với 86 phiếu thuận và 3 phiếu chống và 36 phiếu trắng, sáp nhập Bessarabia vào Vương quốc Romania, với điều kiện thực hiện cải ruộng đất, tự trị địa phương, và tôn trọng các quyền tín ngưỡng. Các điều kiện bị huỷ bỏ sau khi BukovinaTransilvania cũng gia nhập Vương quốc Romania.[16][17][18][19][20] Liên minh này được các quốc gia Đồng Minh công nhận trong Hiệp ước Paris (1920).[21] Tuy nhiên, nước Nga Xô viết mới được thành lập, không công nhận quyền cai quản của Romania với Bessarabia. Liên Xô coi vùng này là lãnh thổ Liên Xô nằm dưới sự chiếm đóng của Romania.[22]

Sau thất bại của cuộc Nổi dậy Tatarbunary năm 1924, vùng Transnistria láng giềng, một phần của Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Ukraina thời ấy, được thành lập thành CHXHCNXV Moldavia. Tháng 8 năm 1939, Hiệp ước Molotov-Ribbentrop và nghị định bí mật thèm vào của nó được ký kết, theo đó Phát xít Đức công nhận Bessarabia thuộc vùng ảnh hưởng của Liên Xô, điều này giúp Liên Xô mạnh mẽ khôi phục tuyên bố chủ quyền với vùng đất này.[23] Dù Liên Xô và Romania đồng ý nguyên tắc giải pháp phi bạo lực cho những tranh chấp lãnh thổ trong Hiệp ước Kellogg-Briand năm 1928 và Hiệp ước London tháng 7 năm 1933, ngày 28 tháng 6 năm 1940, sau khi ra một tối hậu thư với Romania, Liên Xô, với sự cam kết không can thiệp của Đức, tiến quân vào Bessarabia và phần phía bắc của Bukovina. Hồng quân nhận được sự chào đón của dân địa phương và chỉ gặp ít kháng cự. Họ thành lập Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Moldavia, gồm khoảng 70% của Bessarabia, và 50% của Moldavian ASSR hiện đã giải tán.[23]

Sự kiện này dẫn tới sự thay đổi chính trị lớn tại Romania, nước này huỷ bỏ hiệp ước liên minh với Pháp và Anh và quay sang thân cận với Đức và cuối cùng là sự thành lập các chính phủ ủng hộ Phát xít. Bằng cách tham gia vào cuộc xâm lược của phe Trục vào Liên Xô năm 1941, Romania chiếm lại các lãnh thổ Bessarabia đã mất, và bắc Bukovina, nhưng chính quyền quân sự của nó cũng tiếp tục chiến tranh sâu vào trong lãnh thổ Liên Xô. Tại Transnistria bị chiếm đóng, các lực lượng Romania, cùng với người Đức, đã trục xuất hay tiêu diệt khoảng 300,000 người Do Thái, gồm 147,000 người từ Bessarabia và Bukovina (trong con số sau này, xấp xỉ 90,000 người thiệt mạng).[24] Quân đội Liên Xô tái chiêm vùng này trong thời gian từ tháng 2 tới tháng 4 năm 1944, và tái lập nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Moldavia. Khoảng 150,000 lính Moldova đã thiệt mạng trong Thế chiến II, gồm khoảng 50,000 người thuộc quân đội Romania (gồm cả tù binh chiến tranh), và khoảng 100,000 trong quân đội Liên Xô.

Trong giai đoạn cầm quyền của Stalin (1940-1941, 1944-1953), Tù đày Liên Xô từ Bessarabia và Bắc Bukovina tới Bắc Urals, Siberia, và Bắc Kazakhstan đã diễn ra thường xuyên, những cuộc trục xuất lớn nhất diễn ra ngày 12–13 tháng 6 năm 1941, và 5-6 tháng 7 năm 1949, chỉ riêng tại nhà nước Cộng hoà Xã hộ chủ nghĩa Moldova đã là 18.392 người[25] và 35,796 người.[26] Các hình thức khác gồm 32.433 vụ bắt giữ nghi phạm chính trị, tiếp đó là đưa vào Trại cải tạo lao động (trong 8.360 trường hợp), tập thể hoá, loại bỏ kinh tế tư nhân, và hạ tầng (chủ yếu trong cuộc rút lui năm 1941). Năm 1946, do hậu quả của nhiều cuộc hạn hán nghiêm trọng cộng với những hạn mức đóng góp bắt buộc do chính phủ Liên Xô, vùng tây nam Liên Xô gặp nạn đói nghiêm trọng.[27] Năm 1946-1947, ít nhất 216.000 người chết hoặc bị hư thai, và khoảng 350,000 trường hợp loạn dưỡng đã được các nhà sử học xác minh chỉ riêng tại Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Moldavia.[26] Những sự kiện tương tự diễn ra trong thập niên 1930 tại Moldavian ASSR.[26] Năm 1944-53, có nhiều nhóm vũ trang chống đối Liên Xô tại Moldova; tuy nhiên NKVD và sau này là MGB đã tìm cách bắt giữ, hành quyết hoặc trục xuất các thành viên của chúng.[26]

Giai đoạn hậu chiến chứng kiến sự di cư ở tầm rộng lớn của các sắc tộc Nga, Ukraina, và các nhóm sắc tộc khác vào trong nhà nước cộng hoà Xô viết mới, đặc biệt là vào các vùng đô thị, một phần để bù cho những thiếu hụt nhân khẩu do các cuộc di cư năm 1940 và 1944 gây ra.[28] Chính phủ Liên Xô tiến hành một chiến dịch khuyến khích bản sắc dân tộc Moldova, tách biệt nó khỏi bản sắc Romania, dựa trên một lý thuyết được phát triển trong thời nhà nước Moldavian ASSR (1924-1940) còn tồn tại. Chính sách chính thức của Liên Xô xác nhận rằng ngôn ngữ được người Moldova sử dụng khác biệt với tiếng România (xem Chủ nghĩa Moldova). Để phân biệt hai loại tiếng này, trong thời Liên Xô, tiếng Moldova được viết theo ký tự Kirin, trái với tiếng România, từ năm 1860 đã được viết theo ký tự Latinh.

Hơn nữa, trong thập niên 1970 và 1980, Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Moldavia nhận được các khoản trợ cấp lớn từ ngân sách Liên Xô để phát triển các cơ sở công nghiệp và khoa học cũng như nhà ở. Năm 1971, Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô thông qua một quyết định "Về các biện pháp pháp triển hơn nữa thành phố Kishinev" (Chişinău hiện đại), cung cấp hơn một tỷ ruble từ ngân sách Liên Xô cho các dự án xây dựng;[29] các quyết định sau đó cũng cung cấp các khoản tiền lớn và gửi các chuyên gia từ các vùng khác của Liên Xô tới giúp phát triển ngành công nghiệp Moldova.

Trong các điều kiện chính trị mới được tạo lập sau năm 1985 từ chính sách glasnost do Mikhail Gorbachev đề xướng năm 1986, để hỗ trợ perestroika (tái cơ cấu), một Phong trào Dân chủ Moldova (tiếng Romania: Mişcarea Democratică din Moldova) được hình thành, và vào năm 1989 bắt đầu được gọi là Mặt trận Nhân dân Moldova (FPM; tiếng Romania: Frontul Popular din Moldova),[30][31] tư tưởng của nó dựa trên chủ nghĩa quốc gia lãng mạn. Cùng với nhiều nước cộng hoà thuộc Liên Xô khác, từ năm 1988 trở về sau, Moldova bắt đầu chuyển sang khunh hướng độc lập. Ngày 27 tháng 8 năm 1989, FPM tổ chức một cuộc tuần hành nhân dân lớn tại Chişinău, được gọi là Đại Quốc hội (tiếng Romania: Marea Adunare Naţională), gây áp lực với chính quyền Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Moldavia thông qua một luật ngôn ngữ ngày 31 tháng 8 năm 1989 tuyên bố tiếng Moldova được viết bằng ký tự Latinh là ngôn ngữ của nhà nước. Sự tương đồng của nó với tiếng România cũng được tái lập.[30][32]

Cuộc bầu cử nghị viện địa phương dân chủ đầu tiên được tổ chức vào tháng 2 và tháng 3 năm 1990. Mircea Snegur được bầu làm Người phát ngôn Nghị viện, và Mircea Druc làm Thủ tướng. Ngày 23 tháng 6 năm 1990, Nghị viện thông qua Tuyên bố về Chủ quyền của "Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Moldova", tuyên bố, cùng với những thứ khác, quy định sự ưu tiên của luật pháp Moldova so với luật pháp của Liên Xô.[30] Sau thất bại của cuộc đảo chính Liên Xô năm 1991, ngày 27 tháng 8 năm 1991, Moldova tuyên bố độc lập. Ngày 21 tháng 12 cùng năm, Moldova, cùng với hầu hết các nước cộng hoà cũ của Liên Xô, ký đạo luật cơ bản hình thành Cộng đồng các quốc gia độc lập (CIS) hậu Xô viết. Tự tuyên bố mình là một nhà nước trung lập, không gia nhập phái quân sự của CIS. Ba tháng sau, ngày 2 tháng 3 năm 1992, nước này được Liên hiệp quốc công nhận chính thức là một quốc gia độc lập. Năm 1994, Moldova trở thành một Đối tác vì Hoà bình của NATO và cũng là một thành viên của Hội đồng châu Âu ngày 29 tháng 6 năm 1995.[30]

Tại vùng phía đông sông Dniester, Transnistria, gồm một tỷ lệ lớn người sắc tộc NgaUkraina ủng hộ Nga (51%, năm 1989, người Moldova chiếm 40%), và là nơi có sở chỉ huy nhiều đơn vị thuộc Quân đoàn Bảo vệ Xô viết số 14 đóng quân, một nhà nước "Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Moldavia Pridnestrovia" được tuyên bố thành lập ngày 16 tháng 8 năm 1990, với thủ đô đặt tại Tiraspol.[30] Động cơ phía sau hành động này là mối lo ngại sự trỗi dậy của chủ nghĩa quốc gia tại Moldova và dự định thống nhất với România ngay sau khi ly khai khỏi Liên Xô. Vào mùa đông năm 1991-1992 những cuộc đụng độ đã xảy ra giữa các lực lượng Transnistria, được các lực lượng bên trong Quân đoàn 14 ủng hộ, và cảnh sát Moldova. Từ mùng 2 tháng 3 tới 26 tháng 7 năm 1992, cuộc xung đột leo thang trở thành một cuộc xung đột quân sự.

Ngày 2 tháng 1 năm 1992, Moldova thiết lập một nền kinh tế thị trường, tự do hoá giá cả, dẫn tới tình trạng lạm phát tăng cao. Từ năm 1992 tới năm 2001, đất nước non trẻ phải chịu một cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, khiến hầu hết dân cư phải sống dưới mức nghèo khổ. Năm 1993, một đồng tiền tệ quốc gia, đông leu Moldova, ra đời để thay thế đồng rúp Liên Xô. Tình hình kinh tế Moldova bắt đầu biến chuyển năm 2001; và tới năm 2008 nước này đã có mức tăng trưởng ổn định hàng năm trong khoảng 5% đến 10%. Đầu thập niên 2000 cũng chứng kiến sự tăng trưởng di cư lớn của những người Moldova tìm kiếm việc làm (chủ yếu bất hợp pháp) vào Nga (đặc biệt là vùng Moskva), Italia, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Síp, Thổ Nhĩ Kỳ, và các quốc gia khác; các khoản tiền gửi về từ những người Moldova ở nước ngoài chiếm tới 38% GDP quốc gia, tỷ lệ cao thứ hai thế giới vào năm 2008.[33]

Cuộc bầu cử nghị viện năm 1994 chứng kiến thành công của Đảng Dân chủ Ruộng đất Moldova với đa số ghế, tạo ra một điểm thay đổi quan trọng trong chính trị Moldova. Mặt trận Nhân dân quốc gia từ thời điểm đó chỉ còn là nhóm thiểu số trong nghị viện, các biện pháp mới nhằm giảm căng thẳng sắc tộc trong nước có thể được thông qua. Những kế hoạch về một liên minh với Romania đã bị huỷ bỏ,[30] và hiến pháp mới trao quyền tự trị cho hai vùng đất ly khai Transnistria và Gagauzia. Ngày 23 tháng 12 năm 1994, Nghị viện Moldova thông qua một "Luật về Vị thế Pháp lý Đặc biệt của Gagauzia", và vào năm 1995 nó đã được pháp hoá.

Sau khi giành thắng lợi trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1996, ngày 15 tháng 1 năm 1997, Petru Lucinschi, cựu Thư ký thứ nhất của Đảng Cộng sản Moldova giai đoạn 1989-91, trở thành tổng thống thứ hai của đất nước (1997-2001), thay thế Mircea Snegur (1991-1996). Năm 2000, Hiến pháp được sửa đổi, đưa Moldova thành một nhà nước cộng hoà nghị viên, với tổng thống được lựa chọn thông qua bầu cử gián tiếp chứ không phải trực tiếp do nhân dân.

Giành 49.9% số phiếu, Đảng Cộng sản Cộng hoà Moldova (tái lập năm 1993 sau khi đã bị đặt ra ngoài vòng pháp luật năm 1991), giành được 71 trên 101 ghế quốc hội, và vào ngày 4 tháng 4 năm 2001, bầu Vladimir Voronin làm tổng thống thứ ba của nước này (tái cử năm 2005, và hiện đang giữ chức). Nước này trở thành nhà nước hậu Xô viết đầu tiên với một Đảng Cộng sản không cải cách quay trở lại nắm quyền.[30] Chính phủ mới được Vasile Tarlev thành lập (19 tháng 4 năm 2001 - 31 tháng 3 năm 2008), và Zinaida Greceanîi (31 tháng 3 năm 2008 - hiện tại). Giai đoạn 2001-2003 quan hệ giữa Moldova và Nga đã được cải thiện, nhưng đã tạm thời sút giảm trong giai đoạn 2003-2006, với sự thất bại của cuộc trưng cầu dân ý Kozak, đỉnh điểm là cuộc khủng hoảng xuất khẩu rượu năm 2006.

Sau cuộc bầu cử nghị viện ngày 5 tháng 4 năm 2009, Đảng Cộng sản giành 49.48% số phiếu, tiếp theo là Đảng Tự do với 13.14% phiếu, Đảng Dân chủ Tự do giành 12.43%, và Liên minh "Moldova Noastră" với 9.77%. Các lãnh đạo đối lập đã tuần hành phản đối kết quả bầu cử gọi nó là gian lận và yêu cầu một cuộc bầu cử thay thế. Ngày 6 thág 4 năm 2009, nhiều tổ chức phi chính phủ và các đảng đối lập đã tổ chức một cuộc tuần hành hoà bình tại Chişinău, với số người tham gia lên tới khoảng 15,000 người cùng sự trợ gikúp của các trang mạng xã hội như TwitterFacebook. Các biểu ngữ phản đối đảng cộng sản và ủng hộ Romania xuất hiện nhiều. Cuộc tuần hành đã vượt qua tầm kiểm soát ngày 7 tháng 4 và trở thành một cuộc bạo loạn khi một phần đám đông tấn công các văn phòng tổng thống và tràn vào toà nhà nghị viện, cướp phá và châm lửa đốt nhiều tầng nhà.[34][35] Cảnh sát đã tái lập sự kiểm soát trong đêm ngày 7-8 tháng 4, giam giữ hàng trăm người biểu tình. Nhiều người bị giam giữ đã thông báo bị cảnh sát đánh đập khi được thả.[35][36] Ba thanh niên đã chết trong ngày diễn ra cuộc bạo loạn. Phe đối lập buộc tội cảnh sát về những cái chết này, trong khi chính phủ tuyên bố rằng họ hoặc không liên quan tới những người biểu tình, hay là do tai nạn. Các quan chức chính phủ, gồm cả Tổng thống Vladimir Voronin, đã gọi cuộc biểu tình là một âm mưu đảo chính và đã buộc tội Romania tổ chức nó.[37] Phe đối lập buộc tội chính phủ tổ chức các cuộc bạo loạn bằng cách đưa nhân viên mật vào trong những người biểu tình.

Sau khi nghị viện không thể bầu ra một tổng thống mới,[38] nó bị giải tán và cuộc bầu cử mới được tổ chức ngày 29 tháng 7 năm 2009, và những người Cộng sản một lần nữa giành được đa số, dù mong manh cả về số phiếu phổ thông cả về số ghế trong nghị viện: 48 trong số 101 ghế cho Đảng Cộng sản, 18 ghế cho Đảng Dân chủ Tự do, 15 ghế cho Đảng Tự do, 13 ghế cho Đảng Dân chủ, và 7 ghế cho Liên minh Moldova của chúng ta.

Bản mẫu:Lịch sử chính trị Moldova

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Moldova http://www.ualberta.ca/~german/PAA/Bessarabians.ht... http://www.hls-dhs-dss.ch/textes/f/F044993.php http://www.easybourse.com/bourse-actualite/marches... http://www.economist.com/theworldin/international/... http://www.languages-study.com/demography/pridnest... http://moldovaintheworld.com http://www.paulbogdanor.com/left/soviet/famine/ell... http://rentmoldova.com/history-of-moldova/where-di... http://www.scribd.com/doc/27529/Dimitrie-Cantemir-... http://igorpivovar.wordpress.com